ĐÓN XUÂN NÀY NHỚ XUÂN XƯA
Mũ Xanh Delta81BCND.
Đông sang, Xuân lại đến, chắc hẳn rằng trong lòng mọi
người ai cũng phơi phới đón Xuân. Thiên
nhiên đã chuẩn bị mùa Xuân từ khi trời sang Thu vào Đông năm trước, Trong thiên
văn học người ta định nghĩa mùa xuân bắt đầu từ thời điểm diễn ra tiết xuân
phân và kết thúc vào thời điểm tiết hạ chí. Mùa Xuân vốn biểu tượng cho niềm hy
vọng mới, cho sự hồi sinh của cuộc sống mới cả động vật lẩn thực vật, mùa xuân
được coi là thời gian của sự phát triển. Vũ trụ này không có bắt đầu và cũng
không có kết thúc, hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu và
sẽ đi về nơi nào. Trong khoảng khắc giao mùa này lòng tôi đắm chìm vào những
suy tư trầm lắng nhất của buổi cuối ngày, mặc dù nhạc điệu Đón Xuân do một ca
sĩ nào đó đang thánh thót mà tôi không nhớ rõ tên. ‘‘Xuân đã đến rồi, reo rắc ngàn hồn
hoa xuống đời. Vui trong bình
minh, muôn loài chim hát vang mọi nơi, đem trong tiếng cười, cho kiếp người
tình thương đắm đuối. Ánh Xuân
đem vui với đời’’. Nhưng theo cảm giác và hình sắc bên ngoài
tôi cảm thấy cảnh vật thật thê lương trái hẳn với cái rực rỡ, tươi vui của mùa
Xuân mà con người luôn chờ đợi.
Thuở thiếu thời, tôi đã từng ngây người đứng ngắm nhìn
những nhánh hoa mai vàng hàng giờ mà vẫn không thấy chán, phải chăng đó là hơi
thở của mùa xuân. Từ ngàn xưa, hoa nói chung được coi là thông điệp của tâm
hồn. Mỗi người trong chúng ta ít nhiều ai cũng yêu hoa…Ai chẳng có kỷ niệm đẹp
về những loài hoa, hoa là người bạn tình muôn thuở cho cõi lòng trắc ẩn... Và cũng từ
ngàn xưa, hoa bao giờ cũng được coi là biểu tượng của cái đẹp, hoa là tặng vật
của tạo hoá ban tặng cho con người. Nhưng với tôi cái vẽ có lẽ đẹp nhất, huyền
thoại nhất thường bao giờ cũng bắt đầu từ ánh lửa của những cục than hồng đang
cháy. Nó như một thứ lửa ấm bên trong mỗi con người, lửa từ bếp Mẹ nhen nhúm,
dường như bao giờ những khoảnh khắc đẹp ấy cũng thường hiện ra giữa bao la, lúc
mơ hồ, lúc mong manh như một lời ru hòa điệu trong làn khói nghi ngút hương
thơm. Cả nhà ngồi quanh nồi bánh chưng, bánh tét, rôm rả chuyện xưa, chuyện tết của năm
rồi đem kể năm nay, đó là cả một câu chuyện ngày xuân đến thâu đêm suốt sáng. Mọi
mâu thuẫn xích mích nếu có chăng
vào những ngày tháng trước đều được bỏ qua, được lãng quên một cách tự nhiên,
tất cả yêu thương mặn nồng đều được san sẻ bởi một thứ men say kỳ diệu do mùa
xuân ban phát.
Xuân năm nay lại về cũng như bao mùa Xuân trước! Sau
những ngày đông giá lạnh, mầu vàng thắm của hoa Mai như sưởi ấm lòng người và
vạn vật và đó cũng là điểm báo vòng quay của một quãng cách hữu hạn trong thời
gian vô hạn. Cái mốc thời gian 50
nămkể từ cái Tết Mậu Thân 1968, tạm đủ dài trong một kiếp sống
phù du và cũng có thể giúp con người quên đi những đớn đau thầm kín. Mốc thời
gian 50 năm đó tạm đủ để nhân loại suy gẫm về
những tội ác ngút ngàn của một cuộc thảm sát dã man nhất trong lịch sử cận đại
mà thủ phạm chính là bạo quyền Việt gian Cộng sản, là
chiến dịch Đông Xuân, là mộng xâm lăng vô hạn do tên tội đồ Hồ chí Minh lãnh
đạo và cái mốc thời gian đó cũng vừa đủ cho con
người vơi dần hay cố quên đi những đau thương bi thảm của
cảnh tượng máu lửa năm nào nơi
miền Nam Việt Nam năm Mậu Thân 1968. Mậu Thân là một bằng chứng cho thấy
rằng người cộng sản trước sau chỉ có một mục tiêu là đạt cho được thắng lợi
bằng bất cứ giá nào, bất kể sinh mạng và tài sản của dân chúng.
Hôm nay đây, ai còn , ai mất, ai vẫn nhớ và ai cố quên
mùa Xuân của 50 năm về trước ? Một
mùa Xuân đầy máu lửa thê lương. Trong tiếng pháo rộn ràng, trong ánh nắng
xuân đang tràn khắp dương gian cùng hòa lẩn tiếng đạn pháo vang rền của bọn
người thú tính(cộng sản Bắc Việt và công cụ của chúng
là Mặt trận giải phóng miền Nam) đã dóc
toàn lực đánh lén Việt Nam Cộng Hòa vào những ngày đầu Tết Mậu Thân trong năm
1968 trên toàn lãnh thổ Miền Nam Việt Nam. Tết Mậu Thân năm nào tôi vẫn còn
nhớ rõ, thật rõ, tuy tôi không có người thân bị vùi thây trong cuộc thảm sát dã
man này nhưng lòng tôi luôn cảm thấy đau nhói như đang bị ai đó dùng con dao
nhọn đâm vào ngay giữa tim mình khi mỗi độ Xuân về , tâm tư tôi hiện đang
trở về với những tang tóc đau thương, trở về với Mậu Thân khói lửa thật khó có
thể tin rằng 50 năm đã trôi qua đối với những ai trong chúng ta đã từng ở đó.
Tất cả chỉ là máu, màu máu loang nhiều hơn màu pháo tết, xác người phơi nhiều
hơn xác pháo rơi. Mậu Thân là một bằng chứng cho thấy rằng bọn Việt gian
cộng sản trước sau chỉ có một mục tiêu là đạt cho được thắng lợi bằng bất cứ
giá nào, chúng ngang nhiên vi phạm lệnh hưu chiến mà chính chúng đã ký kết.
Kinh hoàng hơn nữa là chúng không ngần ngại bắn thẳng vào những dân lành vô
tội trong 2 đợt tổng công kích. Ngay sau những giờ khắc kinh dị đó, nhất
là người dân Huế bàng hoàng nhận ra rằng hàng ngàn thân nhân của mình, sẽ
không bao giờ trở về nữa. Họ đã bị thảm sát ra sao, và bị chôn tập thể như thế
nào? Xin hãy điểm lại ký ức của những nhân chứng từ 50 năm trước. Mậu Thân năm
1968, những gì xảy ra cho người đã chết, sẽ còn mãi trong lòng người đang sống.
Biến cố ấy sẽ không thể trôi qua trong quên lãng khi hàng ngàn người, vừa
thanh niên, vừa trí thức, vừa sinh viên, học sinh, phải chết đớn đau khi chưa
đầy 1 tháng. Bao cảnh tượng hải hùng này làm sao tôi có thể quên đi
được khi tôi được sinh ra và lớn lên tại miền Nam Việt Nam nói chung và
tại thành phố được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Ðông nói riêng. Sài Gòn với tôi là tất cả, mảnh
đất này là nơi ôm giữ một phần cuộc đời tôi, Sài Gòn có những cơn mưa đầu
mùa Hạ, Sài Gòn êm ả, Sài Gòn có Givral với những ly kem mát lạnh, đây là
món giải khát không thể thiếu mỗi lần đi dạo phố, Sài Gòn có cà phê La
Pagode, Brodard, Sài Gòn có chợ hoa Nguyễn Huệ khi mỗi độ Xuân về, Sài Gòn có nhà sách Khai Trí
với vô vàn sách truyện mà tôi thường say mê đọc cọp thời còn cấp sách đến
trường và Sài Gòn còn có rất nhiều thứ nữa khi nói đến Sài Gòn.
XUÂN TRONG
MÁU LỬA
Mậu Thân
khói lửa mù trời
Tháng,
ngày, năm đó khó thời quên đâu
Tết kia
cảnh tượng buồn đau
Giao thừa
máu đổ thay màu pháo rơi
Phố pường
khắp lối thây phơi
Mậu Thân
xuân đó...Than ôi điêu tàn
Trẻ, già,
phận cảnh lầm than
Khăn tang
quấn phủ lệ hàng tuông rơi
Mặc cho vật
đổi, sao dời
Xin người
nhớ lại Xuân thời năm xưa
Một chiều,
một sớm, một trưa
Việt Nam
quê Mẹ nắng mưa cùng người
Chung nhau
khấn vái đôi lời
Nguyện cầu
Thượng Đế cứu đời lưu vong
Dân tình
thoát cảnh cùm gông
Trẻ, Già
quy tụ giống giòng LẠC QUÂN.
Pháp Quốc,
Mậu Tuất 2018
Ngòi bút đã mòn
đầu, bình mực cũng đã khô nên lâu nay tôi không màng luận bàn đến thế
sự cũng như thảm trạng của đất nước Việt Nam, chỉ vì nơi đó có trên
90 triệu khối óc và con tim đang hiện hữu. Nhưng rất tiếc là không
thấy nhiều người quan tâm đến hiểm họa diệt vong, nên dù cố dặn với
lòng là không viết gì thêm nữa, thế rồi cũng phải trái ý bởi những
chuyện nghịch lý, tào lao khi xem qua việc đề xuất cải tiến bảng chữ
cái tiếng Việt cũng như chuyển cách viết tiếng Việt của tên phó
giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền (Bùi HÈN) với mảnh bằng
phó giáo sư tiến sĩ do cái gọi là cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt
Nam đào tạo.
Theo quan điểm của một người không hành nghề giáo sư và cũng không
có bằng tiến sĩ như tôi, thì một học gia, nghiên cứu sai hoặc đúng,
thành công hay thất bại là chuyện rất hết sức bình thường, nhưng đối
với tên phó giáo sư tiến sĩ (Bùi HÈN) này không đơn giản là
thế. Thâm ý trong việc sửa đổi âm điệu và cách viết quốc ngữ VN của
ông ta là có ý đồ muốn xóa bỏ nguồn gốc của một dân tộc, ông phó
giáo sư tiến sĩ (Bùi HÈN) này còn bảo rằng : ‘‘Đây là một
phần của một công trình nghiên cứu đã hàng mấy chục năm qua và ông
kỳ vọng nhiều vào nó, ông sẽ không lùi bước vì nó mang lại những
lợi ích đáng kể’’ (sic). Lợi ích gì ở đây, có phải là lợi ích
làm mất đi nền tảng văn hóa VN không ? Ông phó giáo sư tiến sĩ (Bùi
HÈN) cho rằng bản chữ cải tiến của ông rất dễ, chỉ cần học một
ngày là xong (sic). Vấn đề không phải một ngày hay nhiều ngày, cũng
không phải dễ hay khó mà là vì chữ viết không là cái ký sinh và
phụ thuộc phát âm. Phát âm có thể lệch chuẩn theo xu hướng bình dân
hóa, thổ ngữ hóa, thậm chí địa phương hóa, nhưng chữ viết luôn có xu
hướng đòi hỏi được chuẩn hóa và thống nhất với tính quy ước rất
cao. Hiện tượng Việt hóa Hán ngữ trong ngàn năm Bắc thuộc nằm trong
quy luật này. Giới nho học vẫn chuẩn hóa chữ viết và âm đọc, trong
khi giới bình dân thì luôn thổ ngữ hóa. Nói chung : (Tiếng
Việt còn thì nước Việt Nam còn !).
Trước tình hình đất nước nguy nan, hiểm họa Bắc thuộc đã trở nên
nóng bỏng ngày càng hiện lên rất rõ nét. Âm mưu đồng hóa dân tộc
của bọn giặc ngoại xâm sẽ khó có thể thực hiện được nếu như dân
tộc đó có sức sống sinh học cao thì sự đồng hóa khó thành công.
Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc, sử gia Trần Trọng Kim có khẳng định
rằng : ‘‘Người Giao Châu có một cái nghị lực riêng và tính chất
riêng để độc lập, chứ không chịu lẫn với nước Tàu’’. Đây là một
thành tựu vĩ đại đáng tự hào nhất của dân tộc Việt Nam ta, có lẽ
chưa dân tộc nào khác làm được.
Một dẩn chứng thật đơn giản là vì sao Tàu cộng đã thống trị
Việt Nam hơn 1000 năm mà cuối cùng rồi chúng cũng vẫn không thể đồng
hóa được người Việt Nam ? Âm mưu thôn tính Tàu cộng đã thực hiện
biện pháp đồng hóa này hơn 10 thế kỷ mà Đại Việt vẫn không bị đồng
hóa. Là người Việt Nam, chắc ai cũng muốn tìm câu trả lời cho những
câu hỏ thú vị đó. Rất tiếc là chưa thấy nhiều người quan tâm nghiên
cứu đến vấn đề này, đúng hơn là tập đoàn lãnh đạo cộng sản Việt
Nam.
Các đỉnh cao trí tuệ (sic) của đảng CSVN cần hiểu rằng cái vũ
khí vạn năng để chống giặc ngoại xâm chính là tinh thần yêu nước và
ý chí quật cường của dân tộc Việt Nam. Tinh thần đoàn kết này sẽ
có tác dụng răn đe đối với tất cả âm mưu thôn tính của Tàu cộng đối
với đất nước Việt Nam. Điều này đã được minh chứng một cách hùng
hồn qua chiều dài lịch sử của đất nước. Hình thức trù dập, bắt
bớ, đàn áp dã man của bọn cường hào, ác bá, đầu trộm đuôi cướp
công an nhân dân do chỉ thị của tập đoàn lãnh đạo cộng sản Việt Nam
đối với người dân đi biểu tình chống Tàu cộng là một tội ác, là
hiểm họa mất gốc, là chà đạp tinh thần yêu nước của dân tộc Việt
Nam và là tự mình từ bỏ một thứ vũ khí mà kẻ thù xâm lược luôn e
sợ. Sự an nguy của tổ quốc cần phải vận dụng vào sức mạnh tổng
hợp của toàn dân trong công cuộc đối đầu chống bọn giặc ngoại xâm
Tàu cộng nếu như không muốn đất nước Việt Nam trở thành phần đất tự
trị của Tàu cộng trong tương lai.
Các đỉnh cao trí tuệ (sic) của đảng CSVN cần hiểu rằng, cái thói
quen bành trướng của Tàu cộng đã có từ ngàn xưa, chúng luôn lăm le
xâm chiếm đất nước Việt Nam qua nhiều hình thức khác nhau, điển hình
là sự kiện An Dương Vương đã bắt đầu vào thời kỳ Bắc thuộc kéo dài
1000 năm trong lịch sử Việt Nam, đến khi Ngô Quyền chinh phạt đánh
thắng giặc trên sông Bạch Đằng. Rồi thì hàng loạt cuộc chiến biên
giới khác kéo dài cho tận mãi đến nay. Tham vọng bành trướng của
bọn giặc ngoại xâm Tàu cộng không dừng lại ở đây mà vẫn luôn cháy
rực không ngừng, cũng như chúng đã xâm chiếm các nước nhỏ ở chung
quanh như : Tây Tạng, Mông Cổ, Tân Cương...v...v...
Ngày nào còn đảng cộng sản Việt Nam ngự trị trên toàn miền đất
nước Việt Nam, thì ngày ấy vẫn còn những tên tào lao phó này, phó
nọ luôn chế ra những những việc làm với tư tưởng cuồng
ngông.
Pháp Quốc 29/11/2017
Mũ xanh Delta81BCND.
‘‘ VAY TRẢ ÂN
TÌNH ’’
Có
Ba điều trong đời người một khi đã đi qua thì không thể lấy lại được,
đó là : THỜI GIAN, LỜI NÓI và VIỆC LÀM. (
Nhân câu chuyện nói về ông phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền (Bùi HÈN),
tôi xin mạo muội kính mong quý vị chớ nên dùng những từ ngữ của Bùi
Hiền dù chỉ để đùa cợt, vì đây là cách gián tiếp phổ biến dùm cho
việc đề xuất cải tiến chữ quốc ngữ của nặc nô Bùi Hiền. Công trình
40 năm trong việc cải tiến chữ quốc ngữ của nặc nô Bùi Hiền thì
chúng ta nên để dành riêng cho nặc nô Bùi Hiền HỌC,
ĐỌC, NÓI và VIẾT. Bởi vì thể loại chữ quốc ngữ vong bản này không
có trong văn học Việt Nam của chúng ta ).
Tài
hèn chí láo như ông phó Giáo sư Tiến sĩ Bùi Hiền thì chỉ nên
viết lưu bút ngày xanh, chứ bước sang nhằm lĩnh vực văn học với hành
trang láo lếu càn rỡ như ông trong việc đề xuất cải tiến chữ quốc
ngữ thì lập tức sẽ trở thành một nặc nô Tàu cộng ngay.
Ông phó giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền còn định ngày hội nghị ngôn ngữ
vào tháng 3 năm 2018, ông sẽ trình bày phần còn lại của công trình nghiên cứu
về nguyên âm để có dược hệ thống cấu thành nên chữ viết (gồm phụ âm và nguyên
âm). Chữ quốc ngữ cải tiến của ông Bùi Hiền dựa trên tiếng nói văn hóa của thủ
đô Hà Nội cả về âm vị cơ bản lẫn thanh điệu, nguyên tắc mỗi chữ chỉ biểu đạt
một âm vị, và mỗi âm vị chỉ có một chữ cái tương ứng biểu đạt, giống như ông
sẽ bỏ chữ Đ ra khỏi bảng chữ
cái tiếng Việt hiện hành như ông dự định, thì tốt nhất là ông cần nên
bỏ thêm 3 chữ khác nữa như : Chữ A, chữ N, chữ G và dấu hỏi thì thật là tuyệt vời. Chữ ĐẢNG mà ông bỏ được thì mới đáng khen chứ
cần chi ông phải nhọc công trong suốt 40 năm để cải tiến quốc ngữ. Ông
phó giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền láo lếu càn rỡ thật.
Các ông phó Giáo sư, tiến sĩ nào được đẻ ra dưới mái trường xã
hội chủ nghĩa cộng sản cuồng ngông cần nên am tường một điều là dân
tộc Việt Nam đang khát khao cái mới, khát khao thay đổi toàn diện
không phải là sự cải tiến quốc ngữ như ông phó giáo sư tiến sĩ Bùi
Hiền mong muốn, mà toàn dân đang khát khao xóa sạch cái chủ nghĩa
cộng sản ngoại lai càng sớm càng tốt để không bị hán hóa, để khỏi
phải trả món nợ ‘‘Ân Tình’’ do các tên đốn mạt đã ngữa tay vay
mượn như : Hồ Chí Minh, Phạm văn Đồng, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần
Đức Lương, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng đã và
đangbày mưu tính kế gian trá, giúp Tàu Cộng từng bước thôn tính
VN. Là người VN thì không thể không suy ngẫm, tìm hiểu về món nợ ‘‘Vay
Trả Ân Tình’’ này.
Sau 1954, Bắc-Việt tiến lên ‘‘Xã hội Chủ nghĩa’’ cho tương xứng với mộng
ước xâm lăng. Càng tiến lên đỉnh cao trí tuệ thì càng nghèo đói, vì
thế chúng tìm đâu ra được những ngân khoản khổng lồ để trả món ‘‘nợ ân
tình’’, ngoài việc đào bới, hôi của gia bảo (đất đai, lãnh hải của Tổ tiên
để lại) mang hiến dâng cho đẹp lòng ngoại bang Trung Cộng (TC). Chứng
tích rõ ràng còn để lại là công hàm ô nhục của Phạm văn Đồng ngày 14-9-1958,
gởi Chu Ân Lai như sau :
[[Chính phủ nước VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên
bố ngày 4/9/1958 của Chính phủ nước CHND Trung-Hoa quyết định về hải phận của
Trung-Quốc. Chính phủ nước VNDCCH tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các
cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của
Trung-Quốc trong mọi quan hệ với nước CHND Trung-Hoa]].
Từ đó, đảng CSVN trở nên khiếp nhược, hèn yếu và liên tiếp ký hai Hiệp
ước nhượng đất và nhượng biển cho TC. Thứ nhất là “Hiệp ước về Biên giới trên
đất liền giữa VN và TC” ngày 30/12/1999 (mất ải Nam Quan) và thứ hai là “Hiệp
ước Phân định Lãnh hải” ngày 25/12/2000 (mất khoảng 10.000 Km2 mặt biển Vịnh
Bắc Việt) làm mất đất đai do Tổ tiên dày công xây dựng. Chung quy cũng vì
tham vọng quyền lực, vì muốn duy trì sự lãnh đạo của đảng CSVN, nên chúng chạy
theo cúi đầu cầu cạnh TC, làm tay sai phục vụ quyền lợi cho TC. Cái bản chất
ngông cuồng này của chúng, bọn CSVN đã tự bộc lộ cái chủ nghĩa vô nhân, chủ
nghĩa giai cấp, chính trị giai cấp, nhà nước chuyên chính vô sản giai cấp,
thế là quyền “Tự do, Dân chủ” của mỗi công dân bình đẳng trong xã hội bị biến
mất để thay vào đó là cái tự do của kẻ cầm quyền. Đây là sách lược, gồm
nhiều thủ đoạn chính trị để chống lại nhân dân, để giai cấp vô sản trở thành
“Tư sản đỏ”. Quyền và Lợi là miếng mồi cho sự phản xạ có điều kiện, có quyền là
có tất cả và có luôn cả một đội ngũ trung thành trong một hệ thống tổ chức
chuyên chính. Bởi vậy chúng cứ cố ôm và bám vào bất cứ cái gì mà có thể tạo ra
được cái quyền và lợi cho chúng. Chúng không muốn làm mất đảng, sụp đổ Chủ
nghĩa Xã hội, nên mới có cái Hội nghị “Thành Đô” để kẻ thù ban phát cho cái
ấn “4 tốt” và “16 chữ vàng”, cho một chủ nghĩa lạc hậu, phản động, phi nhân
bản, chống nhân loại ! Một chủ nghĩa, một chính sách, một chế độ mà Chủ tịch
đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng đều dối trá, đều mưu đồ phản
quốc thì quả là dân tộc VN vô cùng bất hạnh ! Từ bản chất độc tài gian dối
đó, các nhóm lãnh đạo CSVN đã gây ra vô vàn tội ác với dân tộc, với nước
mà 5 tội ác dưới đây là tiêu biểu :
1)- Văn kiện ngày 14/9/1958, là công hàm do Thủ tướng Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ
tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung cộng Chu Ân Lai vào ngày 14 tháng
9 năm 1958. Trong công hàm này Phạm Văn Đồng thông báo cho Thủ tướng Chu Ân Lai
biết Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa "tán thành" và "tôn
trọng" "bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng
hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận 12 hải lý, công nhận vùng Biển
Đông (bao gồm 2 quần đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa) của VN là lãnh thổ của nước
Tàu. Đây là hành động chư hầu của nhóm lãnh đạo CSVN đối với TC, chẳng
khác thời phong kiến xa xưa !
2)- Ngày 30/12/1999, Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư đảng CSVN, ký Hiệp ước
dâng 789 cây số vuông dọc biên giới phía Bắc cho TC để trả nợ mua vũ khí đạn
dược gây chiến tranh trong cuồng vọng xâm lăng miền Nam VN (1955-1975) ! Hiệp
ước này đã được CSVN âm thầm đưa ra Quốc
hội bù nhìn của chúng phê chuẩn ngày 9/6/2000. Hành động một cách mờ ám, không công khai minh bạch như vậy chứng tỏ đó là
những hành động tội ác ‘‘Trời không dung, Đất không tha’’ phải che giấu thật
kỹ, không để ai biết. Đồng thời cũng bộc lộ
cho thấy chính xác rằng bọn CSVN luôn đặt quyền lợi đảng của chúng lên trên
quyền lợi của Tổ quốc và Dân tộc.
3)- Ngày 25/12/2000, Trần Đức Lương, Chủ tịch nước, đến Bắc-Kinh cùng Giang
Trạch Dân ký Hiệp ước cắt 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt cho TC để lấy
2.000.000.000 Mỹ kim.
4)- Ngày 1/11/2007, Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định 167 phê duyệt quy hoạch
phân vùng, thăm dò, khai thác, chế biến, xử dụng quặng bô xít từ 2007-2015,
thậm chí có thể kéo dài đến
2025. Tháng 12/2008, Nguyễn Tấn Dũng còn tuyên bố : “Khai thác quặng Bauxite là
chủ trương lớn của đảng” (mà đảng là ai ? Là nhóm lãnh đạo). Thỏa hiệp này cho
TC mang hàng chục ngàn công nhân và quân đội dưới danh nghĩa bảo vệ an ninh
vùng khai thác Bauxite, vùng Dak Nong trên Cao nguyên Trung phần, tạo môi
trường ô nhiểm, biếncuộc sống vùng này trở nên tồi tệ. Nhưng tệ hại và nguy
hiểm hơn cả là các công nhân và quân
đội này sẽ là một lực lượng quân sự đáng kể của giặc
trên đất nước VN. Chúng có thể đồn trú bất cứ ở đâu và bất cứ bao lâu, Tập đoàn
CSVN cũng không dám xớ rớ tới xét hỏi do bản
chất ươn hèn của chúng trong cái ‘‘Ân Tình Vay Trả’’ này đối với
quan thầy TC.
5)- Và mới đây, năm 2017, Nguyễn Phú Trọng ngay khi đặt chân đến
Bắc Kinh, chiều ngày 12-1-2017 tại Lễ Đường Nhân Dân Bắc Kinh, Nguyễn Phú Trọng
đã ký kết 15 văn kiện hợp tác giữa Việt Nam và Trung Cộng, qua nội dung
15 văn kiện bán nước khi đến Bắc Kinh đã được Trung Cộng soạn sẵn thì hai chữ
“Hợp tác” được hiểu là “lệ thuộc”, “trực thuộc” trên cơ sở của một khu tự trị
sắc tộc Việt Nam đối với trung ương ở Bắc Kinh, về 16 chữ vàng và 4 tốt.
Đó là ngụy trang của chương trình 30 năm để hoàn tất việc sát nhập Việt Nam trở
thành một khu tự trị như các sắc tộc Mãn, Tạng, Hồi. Mông, trong đại gia đình
các sắc tộc thuộc ở Bắc Kinh. Chương trình xuất phát từ thỉnh nguyện của Nguyễn
Văn Linh và Đỗ Mười ở Hội nghị Thành Đô ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990.
Những tội đồ ký trên các văn
kiện gian trá ngày 14/9/1958, ngày 30/12/1999, ngày 25/12/2000, ngày 1/11/2007
và ngày 12/1/2017 đích danh là Bộ Chính trị Trung ương đảng CSVN,
mà tiêu biểu là các tên Hồ Chí
Minh, Phạm văn Đồng, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Nguyễn
Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng..., đều là một lũ Việt
gian (VG) đốn mạt, luôn luôn cúc cung tận tụy bày mưu tính kế gian trá, giúp
Tàu Cộng từng bước thôn tính VN trên
các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự…
ước VN chúng ta qua nhiều ngàn năm lịch sử
với biết bao thăng trầm vinh nhục, nhưng chưa có một triều đại nào, chính
thể nào và cũng chưa có nhóm lãnh đạo nào tồi tệ, đê hèn như Tập đoàn Việt
gian Cộng sản này. Từ kinh nghiệm dẫn đến khẳng định : Ngày nào
chế độ độc tài đảng trị CSVN còn tồn tại, thì ngày đó Dân tộc VN vẫn còn bị
áp bức bóc lột, người yêu nước còn bị trù dập, tra tấn dã man và lãnh
thổ, lãnh hải còn bị đem đi dâng hiến, bán thí, bán đổ cho quan thầy
TC. Trước hiểm họa diệt vong, người dân trong nước không còn lựa
chọn nào khác là phải cùng một lòng đứng lên loại trừ lũ vô loài VGCS, giành
lại quyền làm chủ đất nước, làm chủ vận mạng mình bằng mọi
giá, phải chấp nhận hy sinh không giới hạn và phải đồng loạt vùng lên
! Vùng lên giải thể cho bằng được cái chế độ độc tài đảng trị CSVN vô
nhân bản này. Lịch sử cho thấy qua những cuộc đấu tranh chống độc tài không
thể dùng những phương pháp ôn hòa mà đạt được thắng lợi, trong bất cứ một cuộc
cách mạng nào, luôn luôn phải có bạo động, phải có đổ máu, chỉ có bạo lực mới
chống lại được bạo lực. Sự nguy hiểm nhất của một chế độ độc tài không phải là
lúc chúng gia tăng sắt máu mà là lúc chúng nới rộng bàn tay cai trị để chúng
cứu vãn các phương diện khác, chính vì phải nới lỏng sự cai trị nên bọn VGCS
phải dùng chiêu bài ‘‘Hòa giải, Hòa hợp Dân tộc’’ nhằm mục đích ngăn chận
sự đứng dậy của toàn dân cũng như vô hiệu hóa sức đấu tranh của đồng bào trong
và ngoài nước và vừa âm mưu thu vét ngoại tệ của kiều bào, cũng như tạo mâu
thuẫn giữa những ngưòi có lập trường và những người không có lập trường. Sự
sụp đổ nhanh chóng của đảng CSVN hay ưu thế trong hiện tại của các tổ chức
tranh đấu trở thành yếu thế, sự thất bại lớn lao hay chiến thắng đột ngột đều
phát xuất từ sự hiểu biết trong việc hy sinh.
Tổ quốc lâm nguy, xin đừng ai vô cảm,
cái đáng sợ không phải việc đối đầu với bọn VGCS mà cái đáng sợ là sự vô cảm
của con người trước hiểm họa diệt vong. Nếu trong công cuộc đấu tranh này chúng
ta không có gì để thay thế cho chiến thắng, cho mục tiêu cuối cùng mà muốn đạt
được mục tiêu cuối cùng tức là phảivùng lên tiêu diệt cho bằng được chế độ vô sản
chuyên chính hung tàn thú tính này. Chỉ có lập trường, chủ trương với
đường lối đứng đắn và mục tiêu tối thượng là chấp nhận hy sinh mới mong giải
cứu quê hương dân tộc ra khỏi bóng ma Cộng sản nội, ngoại xâm. Khát vọng Tự do, Dân chủ, ấm no và nhân
bản đã trở thành khát vọng cấp bách của dân tộc, vì ngày nào còn đảng CSVN thì
quyền làm người luôn bị tiêu diệt ngày đó và khát vọng Tự do, Dân chủ, ấm no
cùng nhân bản càng sẽ trở thành huyền ảo xa xôi. Ngày nào đảng CSVN còn thì đất
nước và dân tộc VN vẫn còn bị mối đe dọa diệt vong, ngoại bang Trung cộng còn
có cơ may đồng hoá dân tộc Việt. Đó là lý do chúng ta phải dùng bạo lực để giải
thể chế độ Cộng Sản tay sai Đế Quốc Trung Cộng này ngay trong hiện
tại. Có như vậy, chúng ta mới cứu vãn và giải quyết được món nợ ‘‘Ân
Tình Vay Trả’’ của đảng CSVN với TC trong việc chúng đem dâng lãnh hải,
bán lãnh thổ của Tổ tiên để trả nợ cho quan thầy TC. Ðây chính là mục tiêu đấu
tranh của chúng ta và đây cũng là những điểm căn bản để khởi sự cho mọi hành
động và mọi hướng đi.
Hãy cố nhớ
lại lời than của Cụ Nguyễn Trường Tộ :
Một lỡ
bước đi muôn thuở hận
Ngoãnh
đầu nhìn lại đã trăm năm.
Pháp Quốc, ngày 3/12/2017.
Mũ xanh Delta.81BCND.
NIỀM ĐAU và NỖI NHỚ
Mũ xanh Delta81BCND.
Cuộc đời như những mảnh vở trong trò chơi ghép hình mà mỗi con người phải tự xếp lấy. Những mảnh vở đó không có một hình dáng nhất định, kích cỡ, không có một công thức hướng dẫn ráp ghép như thế nào để tạo nên “dáng vóc”. Mỗi người đều phải ngẫu nhiên lấy và ghép cho mình một “số phận” mà trong đó có vô vàn những mảng màu, những cung bậc vớinhiều cảm xúc khác nhau. Vấn đề quan trọng là mình cảm nhận thế nào đó thôi ! Cốt yếu không phải đẹp, xấu, to, nhỏ của hình hài mỗi mảnh vỡ, dù những mảnh vỡ đó có trôi nổi trong dòng đời như chiếc lá khô trên mặt nước nhưng ta hoàn toàn có thể chọn lựa cách ráp để đối phó. Tất cả đều tùy thuộc vào thái độ : Can đảm đương đầu để vươn lên hay chịu bị nhấn chìm. Ðiều này chỉ có thể thực hiện được và có thể xảy ra khi toàn dân trong nước đặt quyền lợi của Tổ Quốc lên trên mọi quyền lợi riêng tư kể cả tánh mạng, chỉ có thế mới thoát được sự chi phối của mọi thế lực.
Hôm nay, tôi viết lại một phần nhỏ nào trong những nỗi khổ đau của dân tộc để chúng ta ôn lại và ghi nhớ một sự kiện lịch sử không phải của riêng ai. ‘‘Việt Nam’’, ‘‘Việt Nam’’. Hai tiếng gọi linh thiêng không khỏi gợn lên những trầm buồn nhưng đầy hùng khí, hai tiếng gọi linh thiêng này không chỉ là “nỗi nhớ khôn nguôi” mà còn là “miềm đau khó dứt”. Một định mệnh hàm chứa nhiều nỗi bất hạnh, đó là những tháng năm cả một miền Nam Việt Nam chìm trong bể khổ, kết thúc bằng một cuộc phân ly, cuộc di tản, vượt biên, vượt biển trên những chiếc bè nhỏmỏng manh như chiếc lá giữa mặt bể mênh mông sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Đây chính là một bản án muôn đời đối với chính sách vô nhân của đảng Cộng Sản Việt Nam. Kẻ chiến thắng thì ôm cái vinh quang thấm đầy máu và nước mắt, thật không bút nào tả hết.
Người ta có thể tách quê hương ra khỏi con người nhưng không thể tách niềm đau nỗi nhớ quê hương ra khỏi tâm hồn họ. Ai đó bảo rằng thời gian sẽ dần phủ một lớp bụi mờ lên kỷ niệm, rồi mọi thứ cũng sẽ phôi phai. Phôi phai thế nào được khi kỷ niệm nó vẫn luôn nằm đó. Cuộc đời của mỗi con người được xây nên từ những viên gạch của quá khứ, của hoài niệm, lẩn khuất trong một góc sâu thẳm trong tâm hồn qua những nỗi nhớ khôn nguôi, những nỗi đau này không phải là mơ tưởng về quá khứ, mà là đợi chờ những ngày mai. Nhắc lại quá khứ không phải để khóc, để gục ngã và cũng không dành cho những con người yếu đuối luôn mang ra để hối hận và day dứt mà quá khứ luôn là hành trang quý giá để con người vững bước, còn tương lai mới là đích đến của mỗi chúng ta, vì cuộc sống đôi khi không phải lúc nào cũng được như ta mong đợi, mọi con đường không phải lúc nào cũng được trải hoa hồng. Những khát khao trong cuộc sống mà ta đặt ra có thể bị trì hoãn nhưng không thể bỏ cuộc.
Trong bối cảnh hư thực hôm nay, nơi con người đang làm thân lưu lạc, hình như tôi không còn nước mắt để khóc, nhưng không khỏi phân vân trước nỗi lòng trắc ẩn bởi nhớ nhung, thương tiếc! Sau những tàn phai của máu lửa chỉ còn là những tiếc nuối, những nhớ thương quay quắt trong một bầu trời xa thẳm. ‘‘Việt Nam’’, ‘‘Việt Nam’’. Tiếng gọi ấy thật là "ngọt ngào" ! Tuy nhiên với tiếng gọi ấy không thôi, thì vẫn chưa đủ. Cảm niệm hay ngợi ca về tình quê hương là một nguồn cảm tuyệt vời như dòng suối mát, như hương hoa của mùa xuân khoe sắc hương thơm, là tiếng lòng rung lên từ nội tâm hòa nhập và dung thông với ngoại cảnh, được cô đọng lại bằng ngôn ngữ để diễn tả tâm sự của mình, cho tiếng lòng được rung lên thành tiết điệu, và tiết điệu nầy sẽ là tiếng lòng của muôn thu.
Ký ức là những gì còn lại, vô hình vô dạng nhưng khó mà xóa được! Và nỗi nhớ nhung này luôn trỗi dậy trong mỗi chúng ta, đậm nhạt tùy theo từng lứa tuổi. Không một ai có thể sống một cách thanh thản, trong một thế giới xa lạ mà không khỏi chạnh lòng. Tôi yêu đất nước VN như tôi yêu chính bản thân mình, tôi yêu đất nước này vì tôi được sinh ra và lớn lên từ nơi đó và tôi đã chia sẻ với nó từng nỗi đau và niềm vui của một thời được làm người lính trận. Trong nổi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng u buồn thê thảm nhất của tôi là người lính VNCH, người lính đó chỉ biết chiến đấu, chiến đấu để gìn giử quê hương và bảo vệ sự an lành cho người khác, chứ người lính không quen viết lịch sử để ca tụng một chiều, thế mà họ chưa bao giờ nhận được một lời an ủi thật tâm.
Pháp Quốc.
25/02/2014.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire